Glucosamin là một amino – mono - saccharid có nguồn gốc nội sinh, là một thành phần giúp tổng hợp glycosaminoglycan cấu trúc nên mô sụn trong...
nguyên nhân
tac dung cua glucosaminelà một amino – mono - saccharid có nguyên nhân nội sinh, là một thành phần giúp tổng hợp glycosaminoglycan cấu trúc nên mô sụn trong toàn bộ cơ thể. Glucosamin đuợc tổng hợp bởi toàn bộ cơ thể nhưng khả năng đó giảm đi theo tuổi tác. Glucosamin trên thị truờng có nguồn gốc từ vỏ tôm cua, động vật biển và có 3 dạng glucosamin dùng trong chữa trị là glucosamin sulfat, glucosamin hydrochorid và N-Acetylglucosamin, trong đó dạng muối sulfat đuợc đối với là có kết quả tốt nhất. Duợc điển Mỹ 32 có chuyên luận glucosamin sulfat natri clorid [1].
Chondroitin sulfat là hợp chất hữu cơ thuộc nhóm mucopolysaccharid hay còn gọi là nhóm proteoglycan, đuợc công thức bởi chuỗi dài gồm nhiều đơn vị kết hợp đuờng và protein. Trong cơ thể, chondroitin sunfat là thành phần tìm thấy ở sụn khớp, xương, da, giác mạc mắt và thành các động mạch. Để dùng làm thuốc, chondroitin sulfat đuợc lấy từ sụn súc vật là lợn, bò, sụn cá mập (shark cartilage).
Tính hiệu nghiệm trong điều trị viêm xương khớp của glucosamin
Glucosamin và các muối của nó đuợc dùng khá rộng rãi như là các loại TPCN đuợc cấp phép hoặc chất hỗ trợ sức khoẻ (health supplements) trong các bệnh viêm xương khớp. Trên thị truờng có nhiều chế phẩm kết hợp glucosamin với các thành phần khác như chondroitin, các vitamin, khoáng chất và các dược liệu.
và các chế phẩm kết hợp của nó được sử dụng khá rộng rãi là do trước đây đã có những nghiên cứu kỹ cho rằng tin tưởng sử dụng glucosamin an toàn và có kết quả tốt làm giảm xuống đau và cải thiện có trách nhiệm trong bệnh viêm khớp xương mãn tính. Tuy vậy, qua các phân tích gộp (phân tích meta) về các tìm hiểu có đối chứng placebo (giả duợc) ngẫu nhiên đã kết luận: sở dĩ có nhận định về tác dụng của glucosamin như trên là do có thiếu sót về biện pháp thiết kế nghiên cứu và đôi khi là sự thiên vị trong công bố kết quả đã dẫn đến sự thổi phồng về những lợi ích tiềm năng của glucosamin [3], [4].
Từ trước đến hiện giờ có nhiều tìm hiểu đưa ra những kết luận trái chiều nhau về tính có kết quả tốt trong điều trị viêm xương khớp của glucosamin. Năm 2007, các nhà khoa học của Đại học Y khoa Boston (Mỹ) đã tiến hành một nghiên cứu để tìm lý do khiến cho kết quả của các tìm hiểu về glucosamin lại khác biệt nhau như vậy [5]. Và họ nhận ra rằng phần lớn các nghiên cứu đưa ra kết quả tích cực về glucosamin được tài trợ bởi các nhà sinh sản các chế phẩm glucosamin, trong khi đa số các nghiên cứu kỹ được các nhà khoa học trung lập tiến hành thì đều không tìm thấy kết quả tốt chữa trị của hoạt chất này.
Một loạt các nghiên cứu kỹ mới đây, trong đó có nghiên cứu kỹ GAIT (The Glucosamine/chondroitin Arthritis Intervention Trial (GAIT)) (2006) [6] thực hiện trên 1583 bệnh nhân có tuổi trung bình 59 với 64% là phụ nữ, đuợc cho là nghiên cứu kỹ có thiết kế tốt, đã kiểm nghiệm kết quả là glucosamin và chondroitin sulfat dùng một mình hay kết hợp không có hiệu nghiệm giảm đau trong bệnh viêm khớp gối tốt hơn đáng kể so với giả dược. Kết quả tìm hiểu của Sawitzke và cộng sự (2008) đánh Giá bán hiệu nghiệm của glucosamin và chondroitin sulfat trên tình trạng mất dần bề rộng khoang khớp (JSW) trên 572 bệnh nhân bị viêm khớp gối đã đi đến kết luận: không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về sự giảm JSW trung bình đã ghi nhận được ở bất kỳ nhóm điều trị nào so với nhóm giả dược sau 24 tháng dùng thuốc [7]. Một nghiên cứu khác của Rozendaal và cộng sự (2008) thực hiện trên 222 bệnh nhân viêm khớp háng đã không nhận thấy ích lợi của việc dùng glucosamin trong 2 năm so với giả dược [8]. Các phân tích gộp (phân tích meta) và tổng quan hệ thống gần đây về các nghiên cứu có đối chứng khi dùng chondroitin sulfat đối với viêm khớp gối hoặc khớp háng đã kết luận là chondroitin chỉ đem lại lợi ích rất nhỏ hoặc không đem lại lợi ích gì so với nhóm dùng đối chứng giả duợc [9], [10] .
Từ đó có thể thấy các nghiên cứu được thiết kế tương đối bài bản nhất đã đưa ra kết quả không thừa nhận tác dụng của glucosamin và chondroitin sulfat (dùng một mình hay kết hợp cả hai) trên các bệnh nhân viêm xương khớp.
Do các kết quả nghiên cứu kỹ về hiệu nghiệm của glucosamin trong điều trị các bệnh viêm xương khớp chưa có đủ bằng chứng thuyết phục nên các chế phẩm glucosamin lưu hành tại Mỹ và Australia chỉ với tư cách là “thức ăn có chức năng” (dietary supplementation). Ngay cả khi chỉ là thức ăn nhiệm vụ với nhiều nới lỏng trong quản lý mức độ kết quả tốt và chất lượng của chế phẩm, năm 2004, công ty Dược phẩm Rotta (Rottapharm) đề nghị FDA đối với phép chính thức công bố thông tin “Bổ sung chế độ ăn hàng ngày với glucosamin sulfat kết tinh làm cho giảm nguy cơ thoái hoá trong viêm khớp, cũng như đau trong viêm khớp và suy giảm có trách nhiệm – Daily dietary supplementation with crystalline glucosamine sulfate reduces the risk of osteoarthritis, joint structure deterioration and related joint pain and limitation of function” đã không được Hội đồng các chuyên gia của FDA chấp nhận do chưa có đủ bằng chứng khoa học ủng hộ đối với công bố đó. FDA đề nghị công ty thay đổi ngôn ngữ công bố là “Bổ sung chế độ ăn với glucosamin sulfat kết tinh làm giảm nguy cơ viêm xương khớp – Dietary supplementation of crystalline glucosamine sulfate reduces the risk of osteoarthritis” [12]. Ngoài ra, trong Dược thư Anh (British National Formulary 59) chỉ có duy nhất một áp dụng chữa trị được đề cập là “giảm triệu chứng của viêm khớp gối mức độ nhẹ và trung bình”
Qua đó ta có thể thấy glucosamin không thể thay thế được các thuốc điều trị bệnh viêm xương khớp. Hơn nữa, việc tin dùng glucosamin không phải lúc nào cũng đem lại kết quả khả quan và công dụng chữa bệnh của glucosamin trong bệnh lý viêm xương khớp vẫn còn đang là một vấn đề được tiếp tục tranh cãi.
Một số chú ý khi sử dụng glucosamin
Tính đa dạng của chế phẩm của glucosamin: glucosamin trên thị truờng có 3 dạng chính: glucosamin sulfat, glucosamin hydrochorid và N-acetylglucosamin. Trong đó chỉ có dạng muối sulfat được luôn tin tưởng dùng nhiều nhất trong các nghiên cứu và được cho là mang lại công dụng tích cực. Điều này chưa chắc đã đúng với 2 dạng còn lại của glucosamin nên cán bộ y tế và nguời tiêu dùng phải chú ý đến thông tin này trên nhãn của loại sản phẩm.
Hàm lượng: trên thị trường có nhiều loại glucosamin với hàm luợng rất khác nhau. Trong hầu hết các nghiên cứu, người ta sử dụng tổng liều 1200 – 1500 mg glucosamin thường chia 3 lần/ngày. Ngoài ra, nếu kết hợp với chondroitin thì liều được khuyên dùng là 1200mg chia 3 lần/ngày. Nếu sau từ 2 đến 3 tháng không thấy cải thiện tình trạng bệnh thì bệnh nhân nên ngừng thuốc và hỏi ý kiến bác sĩ (Dược thư Anh – BNF 59).
Nguyên nhân: những chế phẩm glucosamin đang lưu hành trên thị trường có nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó chất lượng của chúng cũng khác nhau. Ở Mỹ, glucosamin chỉ đuợc coi là thức ăn nhiệm vụ nên ít bị kiểm duyệt chặt chẽ về mặt chất luợng. Ngoài ra, ít có các nghiên cứu kỹ về công dụng và hiệu quả cũng như chất luợng của loại thực phẩm chức năng được tiến hành với các chế phẩm glucosamin có nguồn gốc từ Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Malayxia - vốn đang tham gia rộng rãi trên thị trường Việt Nam.
Kết luận
Những tác dụng chữa bệnh của glucosamin trên bệnh nhân viêm xương khớp chưa có được những bằng chứng thực sự rõ ràng và vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Khi thường xuyên sử dụng glucosamin cần phải chú ý đến các thông tin về dạng bào chế của glucosamin, về hàm luợng và nguồn gốc của thực phẩm chức năng. Việc dùng glucosamin đủ liều và đủ thời gian cũng rất quan trọng để có thể đem lại những biến chuyển tốt. Khi luôn tin tưởng dùng các chế phẩm có chứa glucosamin, nguời kê đơn cũng như bệnh nhân nên cân nhắc tất cả các yếu tố, nhất là giữa lợi ích kinh tế và hiệu quả chữa bệnh chưa rõ ràng của glucosamin ngày nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét